Loading the content... Loading depends on your connection speed!

Xuân Diệu-Hoài Thanh: Hai tác giả, một cửa

In: Sách

“Ông hoàng” thơ tình Việt Nam Hoài Nam-Xuân Di là kết quả của trào lưu thơ Mới, đây là một thực tế không thể phủ nhận. Nhưng tôi nghĩ nên rõ ràng và chính xác hơn: Xuân Thần là ngọn “cành” lãng mạn trên bài thơ “Cây” mới. Ngoài ra, có ít nhất một “nhánh” trong thơ Mới: “nhánh” tượng trưng của Chủ nghĩa Siêu thực, trải dài từ Bích Khê, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên đến Nguyễn Xuân Sanh, Đinh Hùng và chính nó. Sau đó kết thúc với tư cách là thành viên nhóm. Dai Dai.

Nhà thơ Xuân Thần.

Hiện tượng này không có gì đáng ngạc nhiên. Bởi vì, như nhiều học giả đã chỉ ra, khi thơ Việt Nam thâm nhập thị trường phương Tây vào đầu thế kỷ 20, có thể bắt nguồn từ lịch sử hàng thế kỷ của thơ ca phương Tây. Các trào lưu lãng mạn, tượng trưng và siêu thực không liên tục và tiêu cực, mà xuất hiện gần như đồng thời và tồn tại song song. Trong sự phát triển đa dạng và cấp bách này, “nhánh” lãng mạn của phong cách đại diện Đế Xuân là “nhánh” tạo được uy thế lớn hơn, đồng thời, hiện thực hóa “nhánh” này cũng là điều thường thấy. Cùng với sự tự giác cao độ về tài năng và thân phận của dân làng (như nhiều truyện kể hàng ngày cho biết), đó có thể là lý do để xưng thần, và đôi khi có thể đánh giá thơ bằng cách quan sát thơ. Huyền Thần! Nói cách khác, ông có nhiệm vụ phải chấp nhận những nguyên tắc sáng tạo thơ, thứ đã làm nên thành công của ông vào những năm 1930 và trở thành “chuẩn mực” để đo lường các tác giả và tác phẩm thơ khác (tức là nhà văn). , Công việc hiện ra sau lưng anh. Ông chỉ trích nặng nề những nội dung “lệch khỏi chuẩn mực” và “vượt quá chuẩn mực.” Trớ trêu thay, trong số những “hành vi lệch chuẩn” và “vượt chuẩn” này, có những sáng tạo thực sự báo trước những chân trời mới trong thơ. Nói cách khác, trong số các nhà thơ, “nhà thơ mớio; (Hoài Thanh) hiện lên như một “bảo bối đình chỉ”: ông không chịu chấp nhận sự phủ nhận cái tôi mới của nhà thơ thượng lưu.

Ví dụ rõ ràng nhất về phản ứng này là sự ủng hộ của Cha Xuan God đối với Ruan Dingxi, một bài thơ được xuất bản tại Hội nghị Tranh luận Văn hóa Bắc Việt năm 1949. Lấy “Party Night” làm ví dụ. Buổi sáng mát mẻ như buổi sáng cũ. Trên đường núi, đừng dựa vào bài phát biểu của Ruan Dingxi làm cơ sở. Thích hợp để ở bên nhau … Chẳng hiểu sao đêm về lại nhớ Hà Nội. Anh Thi rất kiệm, nhưng kiệm quá, đã phê phán: “Quăng nhiều quá, người đọc không theo kịp thì không còn là thơ.” Cái không vần trong thơ Nguyễn Đình Thi, mặc dù Xuân Diệu đã làm được. Ông không trực tiếp phản đối mà đề cập đến chủ trương thơ phải có vần vì những lý do sau: vần là chỗ nghỉ, vần là “hồn thơ, dựa chắc vào câu”, vần làm người nghe dễ nhớ, dễ thuộc vần. Nó liên quan đến thói quen của quần chúng và người Việt Nam. Từ sự so sánh giữa đặc điểm thơ của thơ Ruan Ding X và thơ của Xuân Di, chúng tôi nhận thấy sự phê phán và hấp dẫn của Xuân Di. Làng Thơ Mới: Thơ Nguyễn là một thể nghiệm “nghệ thuật đột phá rõ ràng” trong văn học chiến tranh, và đánh giá của Xuân Di về thơ Nguyễn được đánh dấu bằng chất thơ lãng mạn thuần túy. Chủ nghĩa lãng mạn, các yêu cầu về nhịp điệu và các mối quan hệ cú pháp-ngữ nghĩa vẫn là quan trọng. Nói cách khác, nếu chỉ coi việc phê bình thơ Xuân Thần của Ruan Ding T trong suốt cuộc đời, với ngôi nhà lãng mạn là biểu tượng, thì Xuân Thần đã lộ rõ ​​diện mạo. Bảo thủ, tôi đấu tranh với #7899; Tôi đã làm việc chăm chỉ và có một sức sáng tạo mạnh mẽ trong thơ. Mới, nhà thơ mới (tất nhiên, theo cách riêng và theo cách riêng của ông). Điều này không chỉ được chứng minh bằng sự quan tâm sớm của ông đối với thơ mới (bài báo đầu tiên của Hoài Thanh có tựa đề “Thơ mới” xuất bản vào Thứ Bảy, số 31, ngày 29 tháng 12 năm 1934) ủng hộ các bài thơ, tuyên bố và Những lời khen ngợi vẫn tiếp tục. Được hình thành và chịu nhiều áp lực trong các “phái” thơ cổ. Ông và Hoài Chân đã “đọc 10.000 bài thơ” để tổng kết một cách thuyết phục phong trào thơ mới qua tuyển tập Thi nhân Việt Nam 1932-1941, điều đó không chỉ được chứng minh. Người ta đã tiến hành thêm một bước nữa, và thực tế này thể hiện ở chỗ ông và các nhà phê bình đã cùng xác định đối tượng phê bình: cùng với nhà thơ mới, ông được xác định là “Ủy ban tàu”. Trước khi bước vào “Thi nhân Việt Nam 1932-1941”, ông đã từng tỏ lòng thành kính với “Hồn Tản Đà” vì đã tham gia hội Tao Đàn lần sau, đại từ duy nhất ông dùng ở đây là “chúng tôi” – “họ Je”. Đó là, tôi đã được bao gồm. Trong bài “Thời đại thơ ca”, Hoài Thanh đã viết về những đặc điểm tinh thần cơ bản của phong trào thơ mới: “Đời ta ở trong lời nói của ta, tuy mất bề rộng sẽ thấy bề sâu. Nhưng càng vào sâu “Bạn càng bình tĩnh.” “Chúng tôi” thay vì “họ”, tất nhiên có tôi trong “chúng tôi”!

Tuy nhiên, cần nói rõ một điều: Thơ Mới của Hoài Thanh “trên tàu” là “trên tàu” thuộc “nhánh” lãng mạn của phong trào thơ Mới, chứ không phải “trên tàu” của Thơ Mới. Nhiều hình thức phát triển. Khi Hoài Thanh viết bài thơ mới đầu tiên, ông đã ủng hộ và khen ngợi thơ Mới dựa trên tác phẩm của các nhà thơ lãng mạn thuần túy Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Phạm Huy Thông … sau đóGái quê say sưa trong Hanmactu (1936), Shalan Viên (1937), tinh hoa Bích Khê (1939) chưa xuất hiện, tập tao nhã của Xuân T Thơ càng xa. Năm 1941, Hoài Thanh không giấu giếm sự lạnh lùng (thậm chí ghê tởm và … bất lực) của không nhà thơ nào trong tập tiểu luận “Bài thơ đầu tiên của một nhà thơ Việt Nam” (1932-1941) (bài bình luận này được đăng lần đầu vào đầu năm 1942). Anh viết: “Vượt ra khỏi khuôn khổ lãng mạn mà anh đã quen thuộc”, chỉ cần chúng ta quen với chúng, chúng ta có thể tìm thấy chúng trong tác phẩm của họ, nhưng chỉ khi đó chúng ta mới khám phá ra dấu vết của tình cảm và những cảm xúc mà chúng ta vẫn gửi gắm trong chúng. Cẩn thận, đó không phải là rồng phượng mà trước đây không ai biết đến. Đôi khi nó đẹp đẽ, đôi khi chúng tưởng như lột tả được những điều thâm thúy, nhưng câu thơ của chúng ta thật vụng về, và dù sao thì hầu hết chúng ta đều mắc phải … Giá mà những thi sĩ huyền bí này chỉ có Đối với một số người thì không sao. Cái tai nạn lớn nhất là lãng phí giấy mực. Tôi không biết rằng họ sẽ làm giàu cho thơ Việt Nam. Tôi chỉ sợ rằng các nhà thơ của chúng ta sẽ đi vào con đường tăm tối này, rồi thơ sẽ trở thành một thiểu số không bao giờ ngừng trong đời sống hàng ngày. Ăn gì bổ nấy ”. Người bình luận nhận xét cụ thể về thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, thơ ông lạ quá. Ông viết “Hàn Mặc Tử”: “Tôi theo Hàn Mặc Tử, từ thơ Đường đến“ quần tiên ”. “Rồi tôi kiệt sức. Đúng như Hàn Mặc Tử đã nói trong bài” Thơ điên “, vườn thơ của người ta bao la, rộng lớn, càng lạnh càng lạnh. Anh viết về Chelan. Bài viết của Wien: “Đối với cá nhân tôi, bất cứ khi nào tôi đi lang thang ở đó (Tháp Chàm, tôi không chỉ thực hành Chúa”), thời gian quá dài, tôi choáng váng và không biết mình là người hay ma. Hạnh phúc biết bao khi thoát khỏi cơn mộng mị dữ dội, trở về, thấy chim vẫn hót, người vẫn hót, đời vẫn bình dị, trời vẫn trong. Anh viết về Bích Khê (Bích Khê) : “Nhưng tôi chưa thể nóiVề Beech. Tôi đã đọc DuyTân hàng chục lần. Tôi thấy những câu hay ở đó. Nhưng tôi không chắc bài thơ này có nói lên được hết cảm xúc của tôi hay không. Hình như còn nữa … “. Vì vậy, có thể phù hợp với nhận định của nhà phê bình văn học Dulay Tui:” Thị hiếu thẩm mỹ của nhà thơ Việt Nam không gì khác ngoài chủ nghĩa lãng mạn. , Đây là biểu tượng. Tôi không hiểu, và tôi không thích ”(Mắt thơ, NXB Văn hóa Thông tin, 2000, tr. 170.) Dù thế nào đi nữa, không ai có thể phủ nhận rằng có một sự“ dè dặt bảo thủ ”đối với nhà phê bình Hoài Thanh lúc bấy giờ. Vừa được phong tặng danh hiệu “Thiên tài” .

(Nguồn: Đại hội nhân dân)

By: admin
Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

CommentName required Email required Website

Back to top